Chắc hẳn bạn không lấy làm lạ khi trên thị trường thuốc có hai khái niệm khá phổ biến là thuốc biệt dược và thuốc generic. Ngày nay, sự phát triển bùng nổ của các công ty dược cả trong và ngoài nước là nguyên nhân dẫn tới sự xuất hiện của hàng trăm, thậm chí hàng ngàn biệt dược có chứa cùng một hoạt chất. Vì vậy việc kê đơn, sử dụng thuốc hướng tới mục tiêu hợp lý- an toàn- hiệu quả cho bệnh nhân ngày càng trở nên khó khăn hơn. Bài viết dưới đây của ChoThuoc.com sẽ giúp phân biệt thuốc biệt dược (biệt dược gốc) với thuốc generic (thuốc mang tên gốc) và ưu nhược điểm của từng loại thuốc.
Thuốc biệt dược và thuốc generic là gì?
Thuốc biệt dược (biệt
dược gốc): Là sản phẩm thuốc có chứa dược chất mới do các nhà nghiên cứu hoặc các nhà sản xuất sáng chế ra. Hãng dược
đứng tên bằng phát minh được phép sản xuất độc quyền sản phẩm trong một thời
gian nhất định (thường là từ 10 đến 20 năm kể từ ngày dược chất được tìm thấy).
Và trong thời gian bảo hộ, một công ty khác muốn sản xuất thuốc theo biệt dược
gốc phải được sự cho phép của hãng độc quyền, đồng thời phải trả tiền bản quyền.
Một số ví dụ về biệt dược
gốc gồm: Amaryl (Hoạt chất: Glimepiride, nhà sản xuất: Sanofi Aventis),
Augmentin (Hoạt chất: Amoxicillin/Acid Clavulanic, nhà sản xuất:
GlaxoSmithKline- GSK). Biệt dược gốc sau này sẽ được dùng làm cơ sở cho các thử
nghiệm đánh giá tương đương sinh học của các thuốc generic.
Thuốc generic và thuốc
gốc: Sau khi hết thời hạn bảo hộ phát minh, các công ty dược khác được phép sản
xuất những thuốc tương tự biệt dược gốc được gọi tên là thuốc generic. Thuốc
generic thường được đặt tên thương mại có thể giống hoặc khác với tên chung quốc
tế (International Nonproprietary Names - INN).
Những thuốc generic
mang tên gốc của dược chất (tên chung quốc tế), ví dụ như paracetamol,
ibuprofen… thì được gọi là thuốc gốc.
Sự giống và khác nhau giữa thuốc generic và thuốc biệt dược
Điểm giống nhau chắc chắn
đầu tiên của thuốc generic và thuốc biệt dược là phải có chứa cùng dược chất, với
cùng hàm lượng hoặc nồng độ, cùng dạng bào chế và cùng đường dùng. Ví dụ:
Amoxicillin 500 mg, viên nang cứng, dùng đường uống.
Thuốc generic và thuốc
biệt dược có thể khác nhau ở những đặc điểm như về hình dạng, màu sắc, mùi vị,
bao bì, qui cách đóng gói, cách ghi nhãn, sự phối hợp tá dược, chất bảo quản…
Song sự khác biệt lớn nhất giữa thuốc biệt dược và thuốc generic là giá thành.
Vì để tìm ra một dược chất và nghiên cứu phát triển thuốc mới là một dự án vô
cùng phức tạp, tốn kém mà không phải hãng Dược nào cũng đủ tiềm lực tài chính-
nhân sự để đầu tư. Trung bình, chi phí cho phát triển một loại thuốc mới mất thời
gian hơn 10 năm và tốn kém khoảng trên dưới 1 tỷ USD. Các hợp chất mới trước hết
được sàng lọc trong phòng thí nghiệm (tỉ lệ chọn là 1/10000- 1/1000 hoạt chất).
Sau đó hợp chất được chọn sẽ được đánh giá độ an toàn, độc tính, hiệu quả, cơ
chế tác dụng trong các thử nghiệm tiền lâm sàng trên động vật hoặc các mô cơ
quan phân lập và tiếp đến là những thử nghiệm lâm sàng trên người (người tình
nguyện khỏe mạnh, người bệnh…).
Cho đến khi thiết lập hồ
sơ về đặc tính dược lực học (tác dụng, cơ chế tác dụng, tác dụng không mong muốn,
liều dùng…), đặc tính dược động học (hấp thu, phân bố, chuyển hóa, thải trừ,
sinh khả dụng…), đặc điểm dạng bào chế (bao gồm: Quá trình sản xuất, độ ổn định,
độ tinh khiết, cách thức hòa tan…) và tính hiệu quả, độ an toàn thuốc mới được
lưu hành trên thị trường.
Những thuốc mới này sẽ
được bán với giá rất đắt để bù lại chi phí cho những chiến dịch marketing đưa sản
phẩm thâm nhập thị trường, thu hồi vốn đầu tư cũng như tiếp tục những dự án
nghiên cứu phát triển thuốc mới. Trong khi đó, các thuốc generic gần như được kế
thừa những kết quả nghiên cứu thử nghiệm giai đoạn tiền lâm sàng và lâm sàng của
thuốc biệt dược nên chi phí nghiên cứu và sản xuất sẽ thấp hơn thuốc biệt dược
70- 80%.
Ưu và nhược điểm của từng loại thuốc
Thuốc biệt dược: Có thể
hiểu rằng thuốc biệt dược là những thuốc mới với hiệu quả điều trị ưu việt; hoặc
là sự phối hợp giữa các dược chất nhằm tăng hiệu quả điều trị, giảm khả năng
kháng thuốc, giảm thiểu tác dụng không mong muốn; hoặc có khả năng trị những bệnh
trước đó được coi là vô phương cứu chữa. Song, giá của những viên thuốc này lại
vô cùng đắt đỏ- và với những người bệnh không có khả năng chi trả thì việc được
dùng thuốc biệt dược hay biệt dược gốc là rất khó.
Một nhược điểm khác của
thuốc biệt dược, đó là người dùng vẫn có nguy cơ gặp những tác dụng bất lợi mà
trong quá trình thử nghiệm lâm sàng vẫn chưa được phát hiện, vì những độc tính
sẽ xuất hiện muộn khi đã dùng thuốc kéo dài hay thậm chí là biểu hiện ở thế hệ
sau (độc tính liên quan đến sinh sản, di truyền).
Lịch sử y học vẫn nhắc
tới thảm họa thalidomid- thảm họa chim cánh cụt- khiến trên thế giới có khoảng
từ 10.000 đến 20.000 trẻ em sinh ra bị dị tật, khiếm khuyết tay, chân, không
tay, không chân hoặc bị co rút ngón tay, ngón chân… Khi bắt đầu được đưa vào sử
dụng ở những năm cuối thập kỉ 50, đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, thalidomide đã
được coi là thần dược với tác dụng giảm đau, an thần vô cùng hiệu quả trong điều
trị các chứng bệnh mất ngủ, ho, cảm lạnh và nhức đầu và có tác dụng tốt với chứng
“nôn mửa buổi sáng” của thai phụ thời kỳ ốm nghén.
Nhưng chỉ một thời gian
ngắn sau khi thalidomide được lưu hành, ở châu Âu và nhiều nước bắt đầu xuất hiện
những ca sinh non và sinh con dị tật. Chỉ trong 3 năm, số nạn nhân dị tật do
dùng thuốc thalidomide gia tăng chóng mặt và thalidomide đã biến thành thảm họa
lớn nhất trong lịch sử ngành y dược thế giới.
Ngày nay, hàng năm vẫn
có nhiều biệt dược bị rút số đăng ký và thu hồi do được báo cáo là gây nhiều
tai biến nghiêm trọng. Ví dụ như biệt dược gốc vioxx (sản phẩm của hãng Dược
Merck Sharp & Dohme chứa dược chất rofecoxib- một thuốc giảm đau chống viêm
không steroid được chỉ định để điều trị viêm khớp và đau cấp tính) bị thu hồi
do có sự gia tăng nguy cơ tim mạch như nhồi máu cơ tim, đột quỵ ở những bệnh
nhân dùng thuốc. Các hiện tượng này xuất hiện sau khi bệnh nhân dùng rofecoxib
kể từ tháng điều trị thứ 18.
Thuốc generic: Thuốc
generic chứa các hoạt chất đã được sử dụng suốt mấy thập kỷ nên bộc lộ hầu hết
tác dụng không mong muốn hay những tai biến liên quan, do đó hoàn toàn có thể
phòng ngừa được. Hơn nữa, giá thành lại thấp hơn nhiều so với thuốc biệt dược,
nên thuốc generic đem đến nhiều sự lựa chọn phù hợp hơn cho người sử dụng. Giá
thành thấp hơn so với thuốc biệt dược là vậy, song không có nghĩa là về mặt chất
lượng hay hiệu quả điều trị thuốc generic lại thua kém thuốc biệt dược.
Một thuốc generic muốn
được phép lưu thông trên thị trường cần phải trải qua quá trình đăng ký- kiểm
tra vô cùng nghiêm ngặt bởi Cục quản lý Dược. Chúng phải được sản xuất bởi xưởng
đã đạt GMP (thực hành tốt sản xuất thuốc) và được chứng minh về hiệu quả, độ an
toàn, nêu rõ đường dùng, cách dùng, liều dùng, phương pháp sản xuất, cách thức
kiểm tra chất lượng (tiêu chuẩn để kiểm nghiệm, thẩm định phương pháp phân
tích), độ ổn định của sản phẩm…
Lựa chọn thuốc hợp lý
Một thuốc generic thậm
chí có thể thay thế được thuốc biệt dược trong điều trị nếu chứng minh được chế
phẩm đó có mức độ và tốc độ hấp thu dược chất (sinh khả dụng) gần giống biệt dược
gốc (đánh giá tương đương sinh học) hoặc chứng minh được tương đương lâm sàng
(chế phẩm tạo đáp ứng dược lý và kiểm soát được triệu chứng bệnh ở mức độ giống
biệt dược gốc).
Các thuốc generic hoặc thuốc
biệt dược có thể thay thế lẫn nhau trong điều trị khi đã chứng minh tương đương
sinh học hoặc tương đương lâm sàng. Tuy nhiên, sự tự ý đổi thuốc đã được bác sĩ
kê đơn không được khuyến khích, nhất là trong một số trường hợp bệnh nhân có cơ
địa dị ứng hoặc không dung nạp với một số tá dược như lactose, gluten, sulfite,
tartrazine (trường hợp này bệnh nhân có thể tránh được bằng cách đọc kỹ phần tá
dược sử dụng trong toa thuốc).
Và với một số thuốc có
độc tính cao hay khoảng điều trị hẹp (liều điều trị rất gần với liều gây độc
tính) như digoxin, cyclosporine, flecainide, lithium, phenytoin, sirolimus,
tacrolimus, theophylline và warfarin… thì việc dùng những biệt dược thay thế
cũng cần phải rất thận trọng. Trên lâm sàng đã ghi nhận trường hợp bệnh nhân có
biểu hiện ngộ độc phenytoin khi dùng 2 chế phẩm có tá dược độn khác nhau
(lactose và calci phosphate) vì viên dùng tá dược độn là lactose nồng độ dược
chất tăng cao hơn nhiều so với viên dùng calci phosphate và gây ngộ độc cho bệnh
nhân.
Mặc dù ưu và nhược điểm
của hai loại thuốc rõ ràng như trên, nhưng sự lựa chọn loại thuốc nào còn tùy
thuộc vào nhiều yếu tố, ở cả phía bệnh nhân và bác sĩ. Trong quy chế kê đơn hiện
nay cũng khuyến khích các bác sĩ kê đơn thuốc theo tên thương mại có chú thích
thêm tên chung quốc tế để tránh bị nhầm lẫn khi có nhiều tên thuốc na ná như
nhau mà chỉ định điều trị khác nhau; hoặc tránh dùng trùng lặp dược chất trong
cùng một đơn gây ngộ độc do quá liều; hoặc dễ dàng lựa chọn thuốc thay thế (sau
khi đã cân nhắc nguy cơ).
Nguồn:
ChoThuoc.com